Thật là một điều kỳ lạ, mỗi khi cảm xúc trong tôi dâng trào mãnh liệt và sâu sắc nhất, tay và lưỡi tôi dường như bị trói lại, khiến tôi không thể diễn tả đúng đắn hay khắc họa chính xác những ý nghĩ đang trỗi dậy trong lòng.
Vậy mà tôi lại là một họa sĩ; mắt tôi mách bảo tôi điều đó, và tất cả bạn bè tôi, những người đã xem các bức phác họa và những ý tưởng chợt nảy ra của tôi, cũng đều nói như vậy.
Tôi là một chàng trai nghèo, sống trong một con hẻm nhỏ nhất.
Nhưng tôi không thiếu ánh sáng, vì căn phòng của tôi ở trên tầng cao của ngôi nhà, với tầm nhìn rộng khắp các mái nhà hàng xóm.
Mấy ngày đầu mới đến thị trấn sống, tôi cảm thấy khá buồn bã và cô đơn.
Thay vì rừng cây và những ngọn đồi xanh rì ngày trước, ở đây tôi chỉ thấy một rừng ống khói.
Và rồi tôi chẳng có một người bạn nào cả; không một gương mặt thân quen nào chào đón tôi.
Thế là một buổi tối, tôi ngồi bên cửa sổ, lòng trĩu nặng buồn phiền.
Chẳng mấy chốc, tôi mởบานหน้าต่าง và nhìn ra ngoài.
Ôi, tim tôi reo lên vui sướng!
Cuối cùng cũng có một gương mặt quen thuộc – một gương mặt tròn trịa, thân thiện, gương mặt của một người bạn tốt mà tôi từng quen ở quê nhà.
Thật ra, đó chính là MẶT TRĂNG đang nhìn vào phòng tôi.
Ông ấy chẳng hề thay đổi, Mặt Trăng già thân thương, vẫn gương mặt y hệt như ngày xưa, khi ông nhìn xuống tôi qua những rặng liễu trên đồng hoang.
Tôi hôn gió gửi ông lia lịa, khi ông chiếu sáng vào tận căn phòng nhỏ của tôi.
Và về phần mình, ông hứa với tôi rằng mỗi buổi tối, khi ông đi dạo, ông sẽ ghé nhìn tôi một vài khoảnh khắc.
Lời hứa này ông đã giữ rất đúng.
Tiếc là mỗi lần đến, ông chỉ ở lại được một lát ngắn ngủi.
Mỗi khi xuất hiện, ông kể cho tôi nghe điều này điều nọ mà ông đã thấy vào đêm hôm trước, hoặc ngay trong buổi tối đó.
“Cứ vẽ lại những cảnh ta tả cho con nghe,” – ông nói với tôi như vậy – “rồi con sẽ có một cuốn sách tranh thật xinh xắn.”
Tôi đã làm theo lời ông dặn trong nhiều buổi tối.
Theo cách riêng của mình, tôi có thể tạo ra một bộ “Nghìn lẻ một đêm” mới từ những bức tranh này, nhưng rốt cuộc thì số lượng có lẽ sẽ quá nhiều.
Những bức tranh tôi đưa ra ở đây không được chọn ngẫu nhiên, mà theo đúng thứ tự như chúng đã được tả cho tôi nghe.
Một họa sĩ tài năng nào đó, hoặc một nhà thơ hay nhạc sĩ nào đó, nếu muốn, có thể sáng tạo thêm từ chúng.
Những gì tôi đưa ra ở đây chỉ là những phác họa vội vàng, được vẽ nhanh trên giấy, xen kẽ một vài suy nghĩ của riêng tôi.
Bởi vì không phải tối nào Mặt Trăng cũng đến với tôi – đôi khi một đám mây che khuất gương mặt ông.
“ĐÊM qua,” – tôi đang trích lại lời của chính Mặt Trăng – “đêm qua ta lướt qua bầu trời Ấn Độ không một gợn mây.”
Gương mặt ta soi bóng trên dòng sông Hằng, và những tia sáng của ta cố gắng xuyên qua những vòm lá chuối dày đặc, uốn cong che trên đầu ta như mai rùa.
Từ trong bụi rậm, một cô gái Ấn Độ bước ra, nhẹ nhàng như linh dương, xinh đẹp như nàng Eva.
Thoáng đãng, nhẹ nhàng như một ảo ảnh, nhưng lại hiện lên rõ nét giữa những bóng tối xung quanh, đó là người con gái của xứ Hindustan.
Ta có thể đọc được trên vầng trán thanh tú của nàng ý nghĩ đã đưa nàng đến đây.
Những cây leo đầy gai xé rách đôi dép của nàng, nhưng mặc kệ, nàng vẫn nhanh chóng tiến về phía trước.
Con nai xuống sông uống nước cũng giật mình nhảy tránh, vì trên tay cô gái cầm một ngọn đèn đang cháy.
Ta có thể thấy máu hồng trên đầu ngón tay thanh tú của nàng, khi nàng khum tay che cho ngọn lửa đang nhảy múa.
Nàng xuống bờ suối, đặt ngọn đèn lên mặt nước, và để nó trôi đi.
Ngọn lửa bập bùng, chao đảo, tưởng chừng như sắp tắt; nhưng ngọn đèn vẫn tiếp tục cháy.
Đôi mắt đen láy của cô gái, hé sau hàng mi dài như lụa, dõi theo ngọn đèn với ánh nhìn tha thiết, mãnh liệt.
Nàng biết rằng nếu ngọn đèn còn cháy cho đến khi nàng không còn nhìn thấy nó nữa, thì vị hôn phu của nàng vẫn còn sống.
Nhưng nếu ngọn đèn đột ngột tắt ngấm, thì chàng đã chết.
Và ngọn đèn vẫn dũng cảm cháy sáng, nàng quỳ xuống, cầu nguyện.
Gần đó, trong đám cỏ, một con rắn đốm nằm cuộn tròn, nhưng nàng không để ý – nàng chỉ nghĩ đến thần Brahma và vị hôn phu của mình.
‘Chàng còn sống!’ nàng vui mừng reo lên, ‘chàng còn sống!’
Và từ những ngọn núi, tiếng vọng đáp lại, ‘chàng còn sống!’
“HÔM QUA,” Mặt Trăng nói với tôi, “Ta nhìn xuống một khoảng sân nhỏ được bao quanh tứ phía bởi những ngôi nhà.”
Trong sân, một con gà mái cục tác cùng mười một chú gà con; và một cô bé xinh xắn đang chạy nhảy xung quanh chúng.
Con gà mái hoảng sợ, kêu quang quác, và dang rộng đôi cánh che chở cho đàn con nhỏ.
Rồi cha cô bé bước ra, mắng con; và ta lướt đi, không nghĩ ngợi gì thêm về chuyện đó.
“Nhưng tối nay, chỉ vài phút trước thôi, ta lại nhìn xuống khoảng sân ấy.”
Mọi thứ đều yên tĩnh.
Nhưng chẳng mấy chốc, cô bé lại bước ra, rón rén đến gần chuồng gà, đẩy chốt cửa, rồi lẻn vào chỗ ở của gà mái và đàn gà con.
Chúng kêu inh ỏi, hoảng hốt bay xuống khỏi sào đậu, chạy tán loạn vì sợ hãi, còn cô bé thì đuổi theo.
Ta thấy rất rõ, vì ta nhìn qua một cái lỗ trên tường chuồng gà.
Ta tức giận với đứa trẻ bướng bỉnh, và cảm thấy vui khi cha cô bé bước ra, mắng nó dữ dội hơn hôm qua, nắm chặt lấy cánh tay nó.
Cô bé cúi đầu, đôi mắt xanh ngấn lệ.
‘Con làm gì ở đây?’ ông hỏi.
Cô bé khóc và nói, ‘Con muốn hôn gà mẹ và xin lỗi vì đã làm mẹ sợ hôm qua; nhưng con sợ không dám nói với bố.’
“Và người cha hôn lên vầng trán ngây thơ của con gái, còn ta thì hôn lên môi và mắt con bé.”
“TRONG con phố hẹp quanh góc kia – nó hẹp đến nỗi tia sáng của ta chỉ có thể lướt qua tường nhà trong một phút, nhưng trong phút đó ta thấy đủ để biết thế gian này được tạo nên từ những gì – trong con phố hẹp ấy, ta thấy một người phụ nữ.”
Mười sáu năm trước, người phụ nữ ấy là một đứa trẻ, chơi đùa trong khu vườn của nhà cha xứ cũ ở vùng quê.
Những hàng rào tầm xuân đã già cỗi, hoa đã tàn úa.
Chúng mọc hoang lan ra lối đi, những cành khẳng khiu vươn lên giữa những nhánh táo.
Đây đó vẫn còn vài đóa hồng đang nở – không đẹp lộng lẫy như nữ hoàng của các loài hoa thường thấy, nhưng chúng vẫn có màu sắc và hương thơm.
Cô con gái nhỏ của cha xứ đối với ta còn đáng yêu hơn cả một đóa hồng, khi cô bé ngồi trên chiếc ghế đẩu dưới hàng rào cây mọc um tùm, ôm ấp và vuốt ve con búp bê có đôi má bằng bìa cứng đã sờn cũ.
“Mười năm sau, ta lại gặp nàng.”
Ta thấy nàng trong một phòng khiêu vũ lộng lẫy: nàng là cô dâu xinh đẹp của một thương gia giàu có.
Ta vui mừng cho hạnh phúc của nàng, và tìm kiếm nàng vào những buổi tối tĩnh lặng, yên bình – ôi, chẳng ai nghĩ đến con mắt trong veo và cái nhìn thầm lặng của ta!
Than ôi! Đóa hồng của ta đã mọc hoang dại, như những bụi hồng trong khu vườn nhà cha xứ.
Có những bi kịch trong cuộc sống thường ngày, và đêm nay ta đã chứng kiến màn cuối của một bi kịch như thế.
“Nàng nằm trên giường trong một ngôi nhà trên con phố hẹp đó: nàng ốm thập tử nhất sinh, và người chủ nhà tàn nhẫn bước vào, giật phăng tấm chăn mỏng, thứ duy nhất che chở nàng khỏi cái lạnh.”
‘Dậy đi!’ ông ta nói; ‘Mặt mày trông phát sợ. Dậy đi, mặc quần áo vào, đưa tiền đây, không thì tao đuổi ra đường! Nhanh lên – dậy đi!’
Nàng đáp, ‘Than ôi! cái chết đang gặm nhấm trái tim tôi. Hãy để tôi yên.’
Nhưng ông ta bắt nàng dậy, rửa mặt, cài một vòng hoa hồng lên tóc; rồi ông ta đặt nàng vào ghế bên cửa sổ, với một ngọn nến cháy bên cạnh, rồi bỏ đi.
“Ta nhìn nàng, nàng ngồi bất động, hai tay đặt trong lòng.”
Gió thổi mạnh làm cửa sổ đang mở đóng sầm lại, khiến một ô kính vỡ tan tành; nhưng nàng vẫn không hề cử động.
Màn cửa bắt lửa, ngọn lửa bùng lên quanh mặt nàng; và ta thấy nàng đã chết.
Người phụ nữ đã chết ngồi đó, bên cửa sổ mở toang, như một bài giảng về tội lỗi – đóa hồng tội nghiệp úa tàn của ta từ khu vườn nhà cha xứ!
“TỐI nay ta xem một vở kịch Đức,” Mặt Trăng nói.
“Đó là ở một thị trấn nhỏ. Một chuồng ngựa đã được biến thành nhà hát; nghĩa là, chuồng ngựa vẫn được giữ nguyên, nhưng được sửa thành các lô riêng, còn toàn bộ khung gỗ thì được bọc giấy màu.”
Một chiếc đèn chùm nhỏ bằng sắt treo dưới trần nhà, và để nó có thể thụt lên trần nhà, như ở các nhà hát lớn, khi tiếng chuông reng reng của người nhắc tuồng vang lên, người ta đã đặt một cái thùng lớn úp ngược ngay phía trên nó.
“‘Reng reng!’ và chiếc đèn chùm sắt nhỏ đột ngột nhô lên ít nhất nửa thước rồi biến mất vào trong cái thùng; đó là dấu hiệu vở kịch sắp bắt đầu.”
Một nhà quý tộc trẻ tuổi và phu nhân của ông, tình cờ đi qua thị trấn nhỏ, đã có mặt tại buổi biểu diễn, và do đó nhà hát đông nghịt người.
Nhưng dưới chiếc đèn chùm lại có một khoảng trống như một miệng núi lửa nhỏ: không một ai ngồi ở đó, vì mỡ nến cứ nhỏ giọt, tí tách!
Ta thấy mọi thứ, vì trong đó ấm đến nỗi mọi khe hở đều được mở ra.
Các đầy tớ nam nữ đứng bên ngoài, nhìn trộm qua các kẽ hở, mặc dù có một cảnh sát thực thụ ở bên trong, dọa họ bằng gậy.
Gần dàn nhạc, có thể thấy cặp vợ chồng quý tộc trẻ ngồi trên hai chiếc ghế bành cũ, thường là chỗ ngồi của ngài thị trưởng và phu nhân.
Nhưng hôm nay, hai vị này đành phải ngồi trên những chiếc ghế gỗ đơn sơ, cứ như thể họ là những công dân bình thường.
Và vị phu nhân lặng lẽ tự nhủ, ‘Giờ thì người ta thấy đấy, có những cấp bậc trên dưới khác nhau;’ và sự việc này đã tạo thêm không khí lễ hội đặc biệt cho toàn bộ buổi diễn.
Chiếc đèn chùm khẽ rung lắc, đám đông bị gõ vào đốt ngón tay, còn ta, Mặt Trăng, đã có mặt tại buổi biểu diễn từ đầu đến cuối.
“HÔM QUA,” Mặt Trăng bắt đầu, “ta nhìn xuống sự náo nhiệt của Paris.”
Ánh mắt ta xuyên qua một căn hộ trong cung điện Louvre.
Một bà lão già nua, ăn mặc tồi tàn – bà thuộc tầng lớp lao động – đang theo chân một người hầu cấp dưới vào phòng ngai vàng rộng lớn trống trải, vì đây là căn phòng bà muốn xem – căn phòng bà nhất quyết phải xem.
Bà đã phải hy sinh nhiều thứ nhỏ nhặt, và dùng nhiều lời lẽ dỗ dành, mới vào được đến đây.
Bà chắp đôi tay gầy guộc, và nhìn quanh với vẻ kính cẩn, như thể bà đang ở trong một nhà thờ.
“‘Chính là ở đây!’ bà nói, ‘ở đây!’ và bà đến gần ngai vàng, nơi có tấm vải nhung sang trọng viền ren vàng rủ xuống.”
‘Kia kìa,’ bà thốt lên, ‘kia kìa!’ rồi bà quỳ xuống hôn lên tấm thảm màu tím.
Ta nghĩ bà đã thực sự khóc.
“‘Nhưng đây không phải là chính tấm nhung đó đâu!’ người hầu phòng nhận xét, và một nụ cười thoáng hiện trên môi anh ta.”
‘Đúng vậy, nhưng đây chính là nơi này,’ người phụ nữ đáp, ‘và chắc hẳn nó cũng trông giống như thế này.’
‘Trông thì giống, nhưng lại không giống,’ người đàn ông nhận xét: ‘cửa sổ bị đập vỡ, cửa ra vào bung khỏi bản lề, và máu lênh láng trên sàn.’
‘Nhưng dù anh có nói gì đi nữa, cháu trai tôi đã chết trên ngai vàng nước Pháp. Chết!’ bà lão buồn bã nhắc lại.
Ta nghĩ không còn lời nào được nói ra nữa, và họ sớm rời khỏi đại sảnh.
Hoàng hôn buông xuống và ánh sáng của ta càng chiếu rực rỡ hơn lên tấm nhung sang trọng phủ trên ngai vàng nước Pháp.
“Giờ thì con đoán xem người đàn bà tội nghiệp này là ai? Nghe đây, ta sẽ kể cho con một câu chuyện.”
“Chuyện xảy ra vào cuộc Cách mạng tháng Bảy, vào buổi tối của ngày chiến thắng rực rỡ nhất, khi mỗi ngôi nhà là một pháo đài, mỗi cửa sổ là một công sự.”
Người dân xông vào cung điện Tuileries.
Ngay cả phụ nữ và trẻ em cũng có mặt trong số những người chiến đấu.
Họ đột nhập vào các căn hộ và đại sảnh của cung điện.
Một cậu bé nghèo mới lớn mặc chiếc áo cánh rách rưới đã chiến đấu giữa những người nổi dậy lớn tuổi hơn.
Bị thương nặng bởi nhiều nhát lê, cậu gục ngã.
Chuyện này xảy ra trong phòng ngai vàng.
Họ đặt người thanh niên đang chảy máu lên ngai vàng nước Pháp, quấn tấm nhung quanh vết thương của cậu, và máu cậu tuôn chảy trên tấm vải nhung tím hoàng gia.
Thật là một bức tranh!
Đại sảnh lộng lẫy, những nhóm người đang chiến đấu!
Một lá cờ rách trên mặt đất, lá cờ tam tài tung bay trên những lưỡi lê, và trên ngai vàng là cậu bé tội nghiệp với gương mặt tái nhợt, rạng ngời, mắt hướng lên trời, chân tay quằn quại trong cơn hấp hối, ngực trần, và bộ quần áo rách rưới tội nghiệp gần như bị che khuất bởi tấm nhung sang trọng thêu hoa huệ bạc.
Bên nôi của cậu bé, một lời tiên tri đã được nói ra: ‘Cậu sẽ chết trên ngai vàng nước Pháp!’
Trái tim người mẹ mơ về một Napoléon thứ hai.
“Tia sáng của ta đã hôn lên vòng hoa bất tử trên mộ cậu, và đêm nay chúng hôn lên vầng trán của bà lão, trong khi một giấc mơ hiện ra trước mắt bà, một bức tranh mà con có thể vẽ – cậu bé tội nghiệp trên ngai vàng nước Pháp.”
“TA đã ở Upsala,” Mặt Trăng nói: “Ta nhìn xuống vùng đồng bằng rộng lớn phủ đầy cỏ dại, và những cánh đồng cằn cỗi.”
Ta soi bóng mặt mình trên dòng sông Tyris, trong khi chiếc tàu hơi nước xua cá vào đám lau sậy.
Bên dưới ta, những con sóng trôi dạt, đổ bóng dài lên những nơi được gọi là mộ của Odin, Thor và Friga.
Trên lớp cỏ mỏng manh phủ sườn đồi, những cái tên đã được khắc lên.
Không có tượng đài nào ở đây, không có đài tưởng niệm nào để du khách có thể khắc tên mình lên, không có bức tường đá nào để họ có thể vẽ tên mình lên bề mặt; vì vậy du khách đã cho cắt bỏ lớp cỏ để làm việc đó.
Mặt đất trơ trụi lộ ra dưới dạng những chữ cái và tên tuổi lớn; chúng tạo thành một mạng lưới bao phủ toàn bộ ngọn đồi.
Đây là một sự bất tử, kéo dài cho đến khi lớp cỏ mới mọc lên!
“Trên đồi có một người đàn ông, một nhà thơ, đang đứng.”
Ông ta uống cạn chiếc sừng đựng rượu mật ong có vành bạc rộng, và thì thầm một cái tên.
Ông ta cầu xin ngọn gió đừng phản bội mình, nhưng ta đã nghe thấy cái tên đó.
Ta biết nó.
Một chiếc vương miện bá tước lấp lánh phía trên nó, và vì thế ông ta không nói ra.
Ta mỉm cười, vì ta biết rằng vương miện của một nhà thơ tô điểm cho chính tên tuổi của ông.
Sự cao quý của Eleanora d’Este gắn liền với tên tuổi của Tasso.
Và ta cũng biết nơi Đóa Hồng của Sắc Đẹp nở rộ!
Mặt Trăng nói vậy, và một đám mây trôi qua giữa chúng ta.
Cầu mong không đám mây nào chia cắt nhà thơ khỏi đóa hồng!
“DỌC theo bờ biển trải dài một khu rừng thông và sồi, khu rừng này tươi tốt và thơm ngát; hàng trăm con chim họa mi đến đây mỗi mùa xuân.”
Ngay bên cạnh là biển, biển cả luôn thay đổi, và giữa hai nơi ấy là con đường cái rộng lớn.
Xe ngựa nối đuôi nhau lăn bánh qua đó; nhưng ta không theo dõi chúng, vì mắt ta thích nhất là dừng lại ở một điểm.
Một Ngôi Mộ Cổ của người Hung Nô nằm ở đó, và cây mận gai cùng cây táo gai mọc um tùm giữa những tảng đá.
Đây chính là chất thơ đích thực của thiên nhiên.
“Và con nghĩ loài người đánh giá chất thơ này như thế nào? Ta sẽ kể cho con nghe những gì ta đã nghe ở đó vào tối qua và trong đêm.”
“Đầu tiên, hai địa chủ giàu có lái xe ngựa đi qua.”
‘Những cái cây thật tuyệt vời!’ người thứ nhất nói.
‘Chắc chắn rồi; mỗi cây có đến mười xe củi,’ người kia nhận xét: ‘sẽ là một mùa đông khắc nghiệt, và năm ngoái chúng ta bán được mười bốn đô la một xe’ – rồi họ đi mất.
‘Con đường ở đây thật tệ,’ một người đàn ông khác lái xe qua nhận xét.
‘Đó là lỗi của những cái cây kinh khủng kia,’ người hàng xóm của ông ta đáp; ‘không có luồng không khí tự do; gió chỉ có thể thổi từ biển vào’ – rồi họ đi mất.
Chiếc xe ngựa đưa thư kêu lách cách chạy qua.
Tất cả hành khách đều ngủ thiếp đi ở nơi tuyệt đẹp này.
Người đánh xe ngựa thổi kèn, nhưng anh ta chỉ nghĩ, ‘Mình thổi kèn hay thật. Nghe ở đây thật tuyệt. Không biết những người trong xe có thích không?’ – và chiếc xe ngựa biến mất.
Rồi hai chàng trai trẻ cưỡi ngựa phi nước đại đến.
Đây là tuổi trẻ và tinh thần sôi nổi! Ta nghĩ vậy; và quả thật, họ mỉm cười nhìn ngọn đồi phủ rêu và khu rừng rậm rạp.
‘Mình sẽ không ngại đi dạo ở đây với Christine nhà xay bột đâu,’ một người nói – rồi họ vụt qua.
“Hoa tỏa hương thơm ngát; không khí lặng như tờ; biển cả dường như là một phần của bầu trời trải rộng trên thung lũng sâu.”
Một chiếc xe ngựa lăn bánh qua.
Sáu người ngồi trong đó.
Bốn người đang ngủ; người thứ năm đang nghĩ về chiếc áo khoác mùa hè mới của mình, nó sẽ rất hợp với ông ta.
Người thứ sáu quay sang người đánh xe và hỏi xem có điều gì đáng chú ý liên quan đến đống đá đằng kia không.
‘Không,’ người đánh xe đáp, ‘đó chỉ là một đống đá; nhưng những cái cây thì đáng chú ý.’
‘Sao vậy?’
‘À, tôi sẽ nói cho ông biết tại sao chúng rất đáng chú ý. Ông thấy đấy, vào mùa đông, khi tuyết rơi rất dày, và che khuất cả con đường đến nỗi không nhìn thấy gì, những cái cây đó dùng làm cột mốc cho tôi. Tôi dựa vào chúng để lái xe, để không bị lao xuống biển; và ông thấy đấy, đó là lý do tại sao những cái cây lại đáng chú ý.’
“Giờ thì một họa sĩ đến.”
Anh ta không nói một lời nào, nhưng mắt anh ta sáng lên.
Anh ta bắt đầu huýt sáo.
Nghe vậy, những con chim họa mi hót vang hơn bao giờ hết.
‘Im đi!’ anh ta cáu kỉnh hét lên; và anh ta ghi chú chính xác tất cả các màu sắc và sự chuyển màu – xanh lam, tím nhạt, và nâu sẫm.
‘Sẽ thành một bức tranh tuyệt đẹp,’ anh ta nói.
Anh ta thu cảnh vật vào mắt mình như một tấm gương phản chiếu; và trong khi làm việc, anh ta huýt sáo một bản hành khúc của Rossini.
Và cuối cùng, một cô gái nghèo đến.
Cô đặt gánh hàng nặng trĩu xuống, và ngồi nghỉ trên Ngôi Mộ Cổ.
Gương mặt xinh đẹp, xanh xao của cô nghiêng về phía khu rừng, lắng nghe.
Mắt cô sáng lên, cô chăm chú nhìn biển cả và bầu trời, hai tay chắp lại, và ta nghĩ cô đang cầu nguyện, ‘Lạy Cha chúng con.’
Bản thân cô không thể hiểu được cảm xúc đang trào dâng trong lòng, nhưng ta biết rằng khoảnh khắc này, và cảnh thiên nhiên tươi đẹp này, sẽ sống mãi trong ký ức của cô trong nhiều năm, sống động và chân thực hơn nhiều so với những gì người họa sĩ có thể khắc họa bằng màu sắc trên giấy.
Tia sáng của ta dõi theo cô cho đến khi bình minh hôn lên vầng trán cô.
NHỮNG đám mây nặng trĩu che kín bầu trời, và Mặt Trăng không hề xuất hiện.
Tôi đứng trong căn phòng nhỏ của mình, cô đơn hơn bao giờ hết, và nhìn lên bầu trời nơi ông đáng lẽ phải hiện ra.
Suy nghĩ của tôi bay xa, đến với người bạn vĩ đại của tôi, người mà mỗi tối đều kể cho tôi nghe những câu chuyện thật hay, và cho tôi xem những bức tranh.
Vâng, ông ấy quả thật đã có nhiều trải nghiệm.
Ông lướt trên mặt nước trận Đại Hồng Thủy, và mỉm cười với con tàu của Nô-ê cũng như gần đây ông nhìn xuống tôi, mang lại niềm an ủi và lời hứa về một thế giới mới sẽ nảy sinh từ thế giới cũ.
Khi Con Dân Israel ngồi khóc bên dòng sông Babylon, ông buồn bã nhìn những cây liễu nơi treo những cây đàn hạc câm lặng.
Khi Romeo trèo lên ban công, và lời hứa tình yêu đích thực bay lượn như một tiểu thiên thần về phía thiên đường, Mặt Trăng tròn vành vạnh, nửa ẩn nửa hiện giữa những cây bách tối màu, trong không khí trong trẻo.
Ông nhìn thấy người khổng lồ bị giam cầm ở St. Helena, nhìn từ tảng đá cô đơn ra đại dương bao la, trong khi những suy nghĩ lớn lao trào dâng trong tâm hồn ông.
Ôi! Mặt Trăng có thể kể biết bao câu chuyện.
Cuộc đời con người đối với ông giống như một câu chuyện.
Đêm nay tôi sẽ không gặp lại ông nữa, bạn cũ ơi.
Đêm nay tôi không thể vẽ lại bức tranh nào về ký ức những chuyến thăm của ông.
Và, khi tôi mơ màng nhìn về phía những đám mây, bầu trời trở nên sáng sủa.
Có một luồng sáng lóe lên, và một tia sáng từ Mặt Trăng chiếu xuống tôi.
Nó lại biến mất, và những đám mây đen bay qua: nhưng đó vẫn là một lời chào, một lời chúc ngủ ngon thân thiện mà Mặt Trăng dành cho tôi.
KHÔNG khí lại trong lành.
Vài buổi tối đã trôi qua, và Mặt Trăng đang ở vào tuần trăng đầu tiên.
Ông lại cho tôi một phác thảo cho một bức tranh.
Hãy nghe những gì ông kể.
“Ta đã theo chân chim vùng cực và cá voi bơi lội đến bờ biển phía đông của Greenland.”
Những tảng đá trơ trụi phủ băng và những đám mây đen kịt bao trùm một thung lũng, nơi những cây liễu lùn và bụi cây hoàng liên gai đứng xanh rì.
Hoa lychnis nở rộ tỏa hương thơm ngát.
Ánh sáng của ta yếu ớt, mặt ta tái nhợt như bông súng nước, bị ngắt khỏi cành, đã trôi dạt theo thủy triều suốt nhiều tuần.
Cực quang phương Bắc hình vương miện cháy rực trên bầu trời.
Vòng cung của nó rộng lớn, và từ chu vi của nó, các tia sáng phóng ra như những mũi tên lửa xoáy tròn khắp bầu trời, lóe lên những ánh sáng thay đổi từ xanh lục sang đỏ.
Cư dân của vùng băng giá đó đang tụ tập để nhảy múa và lễ hội; nhưng, đã quen với cảnh tượng huy hoàng này, họ hầu như không thèm liếc nhìn.
‘Hãy để linh hồn người chết chơi trò ném đầu hải mã của họ đi,’ họ nghĩ trong sự mê tín của mình, và họ hoàn toàn chú tâm vào ca hát và nhảy múa.
Giữa vòng tròn, và đã cởi bỏ chiếc áo choàng lông thú, một người Greenland đứng đó, với một cây sáo nhỏ, anh ta chơi sáo và hát một bài hát về việc bắt hải cẩu, và dàn đồng ca xung quanh hòa theo, ‘Eia, Eia, Ah.’
Và trong những bộ quần áo lông thú màu trắng, họ nhảy múa trong vòng tròn, đến nỗi bạn có thể tưởng tượng đó là một vũ hội của gấu Bắc Cực.
“Và bây giờ một Phiên Tòa được mở ra.”
Những người Greenland có xích mích bước ra, và người bị xúc phạm cất lên bài ca ngẫu hứng kể tội đối thủ của mình, chế nhạo họ một cách sắc bén, theo tiếng sáo và nhịp điệu của điệu nhảy.
Bị cáo đáp lại bằng những lời châm biếm cũng sắc sảo không kém, trong khi khán giả cười vang và đưa ra phán quyết của họ.
Những tảng đá rung chuyển, sông băng tan chảy, và những khối băng tuyết khổng lồ đổ sập xuống, vỡ tan thành từng mảnh khi rơi; đó là một đêm hè huy hoàng ở Greenland.
Cách đó một trăm bước chân, dưới chiếc lều da thú trống trải, một người đàn ông ốm yếu nằm đó.
Sự sống vẫn chảy trong dòng máu ấm áp của anh, nhưng anh vẫn phải chết – chính anh cảm nhận được điều đó, và tất cả những người đứng xung quanh anh cũng biết điều đó.
Vì vậy, vợ anh đã bắt đầu khâu tấm vải liệm bằng lông thú quanh anh, để sau này cô không phải chạm vào thi thể.
Và cô hỏi, ‘Anh có muốn được chôn trên tảng đá, trong lớp tuyết dày không? Em sẽ trang trí nơi đó bằng chiếc thuyền kayak của anh, và những mũi tên của anh, và thầy phù thủy angekokk sẽ nhảy múa trên đó. Hay anh muốn được chôn ở biển hơn?’
‘Ở biển,’ anh thì thầm, và gật đầu với một nụ cười buồn bã.
‘Phải, biển là một căn lều mùa hè dễ chịu,’ người vợ nhận xét. ‘Hàng ngàn con hải cẩu nô đùa ở đó, hải mã sẽ nằm dưới chân anh, và cuộc đi săn sẽ an toàn và vui vẻ!’
Và những đứa trẻ la hét xé toạc tấm da thú căng ở lỗ cửa sổ, để người chết có thể được đưa ra đại dương, đại dương cuộn sóng, nơi đã cho anh thức ăn khi còn sống, và bây giờ, khi chết, sẽ cho anh một nơi yên nghỉ.
Đài tưởng niệm của anh là những tảng băng trôi nổi, luôn thay đổi, nơi hải cẩu ngủ, trong khi chim bão bay lượn quanh những đỉnh núi băng lấp lánh của chúng!
“TA biết một bà cô già,” Mặt Trăng nói.
“Mỗi mùa đông bà mặc một chiếc áo choàng bằng sa tanh màu vàng, và nó luôn còn mới, và đó là kiểu thời trang duy nhất bà theo.”
Vào mùa hè, bà luôn đội cùng một chiếc mũ rơm, và ta thực sự tin rằng đó là cùng một chiếc váy màu xanh xám.
“Bà không bao giờ ra ngoài, trừ khi qua đường đến thăm một người bạn gái già; và những năm sau này bà thậm chí không đi bộ như vậy nữa, vì người bạn già đã qua đời.”
Trong sự cô đơn của mình, bà cô già của ta luôn bận rộn bên cửa sổ, nơi được trang trí vào mùa hè bằng những bông hoa xinh xắn, và vào mùa đông bằng cải xoong trồng trên nỉ.
Những tháng cuối cùng ta không còn thấy bà ở cửa sổ nữa, nhưng bà vẫn còn sống.
Ta biết điều đó, vì ta chưa thấy bà bắt đầu ‘cuộc hành trình dài,’ mà bà thường nói với bạn mình.
‘Phải, phải,’ bà thường nói, ‘khi tôi chết, tôi sẽ thực hiện một cuộc hành trình dài hơn cả cuộc đời tôi đã đi. Hầm mộ của gia đình chúng tôi cách đây sáu dặm. Tôi sẽ được đưa đến đó, và sẽ ngủ ở đó giữa gia đình và họ hàng của tôi.’
Đêm qua, một chiếc xe ngựa dừng lại trước nhà.
Một chiếc quan tài được mang ra, và lúc đó ta biết bà đã chết.
Họ đặt rơm xung quanh quan tài, và chiếc xe ngựa chạy đi.
Người đàn bà già lặng lẽ ấy, người đã không ra khỏi nhà một lần nào trong năm cuối cùng, đang ngủ yên.
Chiếc xe ngựa lăn bánh qua cổng thành nhanh nhẹn như thể đang đi một chuyến du ngoạn thú vị.
Trên đường cái, tốc độ còn nhanh hơn nữa.
Người đánh xe thỉnh thoảng lại lo lắng nhìn quanh – ta đoán ông ta nửa mong đợi được thấy bà ngồi trên quan tài, trong chiếc áo choàng sa tanh màu vàng.
Và vì giật mình, ông ta đã ngu ngốc quất roi vào ngựa, trong khi giữ dây cương chặt đến nỗi những con vật tội nghiệp sùi bọt mép: chúng còn non và hung hãn.
Một con thỏ rừng nhảy qua đường làm chúng hoảng sợ, và chúng thực sự chạy mất.
Người thiếu nữ già nua, điềm đạm, người đã nhiều năm lặng lẽ xoay quanh trong một vòng tròn buồn tẻ, giờ đây, khi đã chết, lại bị xóc nảy trên đường cái gập ghềnh.
Chiếc quan tài bọc rơm rơi khỏi xe ngựa, và bị bỏ lại trên đường cái, trong khi ngựa, người đánh xe, và xe ngựa lao đi như điên cuồng.
Con chim sơn ca cất tiếng hót líu lo từ cánh đồng, hót vang bài ca buổi sáng trên chiếc quan tài, rồi đậu xuống đó, dùng mỏ mổ vào lớp rơm phủ, như thể muốn xé nó ra.
Con chim sơn ca lại cất cánh bay lên, hót vang vui vẻ, và ta rút lui sau những đám mây đỏ buổi sáng.
“TA sẽ cho con xem một bức tranh về Pompeii,” Mặt Trăng nói.
“Ta đang ở vùng ngoại ô, trên Con Đường Lăng Mộ, như người ta gọi, nơi có những tượng đài đẹp đẽ, tại chính nơi mà nhiều thế kỷ trước, những thanh niên vui vẻ, thái dương quấn vòng hoa hồng, đã nhảy múa cùng các chị em xinh đẹp của Lais.”
Giờ đây, sự im lặng của cái chết bao trùm xung quanh.
Lính đánh thuê người Đức, phục vụ cho Napoli, đang canh gác, chơi bài, và xúc xắc; và một đoàn người lạ từ bên kia núi đến thị trấn, có một lính gác đi cùng.
Họ muốn xem thành phố đã trỗi dậy từ nấm mồ được chiếu sáng bởi tia sáng của ta; và ta cho họ thấy những vết bánh xe trên những con đường lát đá dung nham rộng lớn.
Ta cho họ thấy tên trên cửa nhà, và những biển hiệu vẫn còn treo đó: họ nhìn thấy trong khoảng sân nhỏ những bể nước của đài phun nước, được trang trí bằng vỏ sò; nhưng không có tia nước nào phun lên, không có bài hát nào vang lên từ những căn phòng được sơn vẽ lộng lẫy, nơi con chó bằng đồng canh giữ cửa.
“Đó là Thành Phố của Người Chết; chỉ có núi Vesuvius cất lên bài thánh ca vĩnh cửu của mình, mỗi đoạn riêng biệt của nó được con người gọi là một vụ phun trào.”
Chúng tôi đến đền thờ thần Vệ Nữ, được xây bằng đá cẩm thạch trắng như tuyết, với bàn thờ cao ở phía trước những bậc thềm rộng, và những cây liễu rủ tươi tốt mọc lên giữa các cột trụ.
Không khí trong suốt và xanh biếc, và núi Vesuvius đen kịt tạo thành hậu cảnh, với lửa luôn phun ra từ đó, giống như thân cây thông.
Phía trên nó là đám mây khói trải dài trong sự im lặng của đêm, giống như tán cây thông, nhưng lại có màu đỏ rực như máu.
Trong đoàn có một nữ ca sĩ, một ca sĩ thực thụ và vĩ đại.
Ta đã chứng kiến sự tôn kính dành cho cô ấy ở những thành phố lớn nhất châu Âu.
Khi họ đến nhà hát bi kịch, tất cả đều ngồi xuống bậc thềm của hí trường, và như vậy một phần nhỏ của nhà hát đã có khán giả, giống như nhiều thế kỷ trước.
Sân khấu vẫn đứng đó không thay đổi, với những bức tường làm cảnh nền, và hai vòm cổng ở phía sau, qua đó người xem nhìn thấy cùng một khung cảnh đã được trưng bày trong thời cổ đại – một khung cảnh do chính thiên nhiên vẽ nên, đó là những ngọn núi giữa Sorento và Amalfi.
Nữ ca sĩ vui vẻ bước lên sân khấu cổ kính, và cất tiếng hát.
Nơi này đã truyền cảm hứng cho cô, và cô làm ta nhớ đến một con ngựa Ả Rập hoang dã, lao đi với lỗ mũi phập phồng và bờm tung bay – giọng hát của cô thật nhẹ nhàng nhưng lại rất vững chắc.
Chốc lát, ta lại nghĩ đến người mẹ đau buồn dưới chân thập tự giá ở Golgotha, biểu cảm nỗi đau thật sâu sắc.
Và, cũng như hàng ngàn năm trước, tiếng vỗ tay và reo hò vui sướng giờ đây lại tràn ngập nhà hát.
‘Sinh vật hạnh phúc, tài năng!’ tất cả người nghe đều thốt lên.
Năm phút nữa, và sân khấu trống rỗng, đoàn người đã biến mất, và không còn một âm thanh nào nữa – tất cả đã đi hết.
Nhưng những tàn tích vẫn đứng đó không thay đổi, như chúng sẽ đứng vững khi nhiều thế kỷ trôi qua, và khi không ai còn biết đến tiếng vỗ tay nhất thời và chiến thắng của nữ ca sĩ xinh đẹp; khi tất cả sẽ bị lãng quên và qua đi, và ngay cả đối với ta, giờ phút này cũng chỉ là một giấc mơ của quá khứ.
“TA nhìn qua cửa sổ nhà một biên tập viên,” Mặt Trăng nói.
“Đó là ở một nơi nào đó ở Đức. Ta thấy đồ đạc đẹp đẽ, nhiều sách, và một mớ báo hỗn độn.”
Có vài thanh niên ở đó: chính người biên tập viên đứng ở bàn làm việc của mình, và có hai cuốn sách nhỏ, cả hai đều của các tác giả trẻ, đáng chú ý.
‘Cuốn này được gửi cho tôi,’ ông ta nói. ‘Tôi chưa đọc nó; anh nghĩ gì về nội dung?’
‘Ồ,’ người được hỏi – chính anh ta cũng là một nhà thơ – nói, ‘khá hay; hơi rộng một chút, chắc chắn rồi; nhưng, anh thấy đấy, tác giả còn trẻ. Những câu thơ có thể hay hơn, chắc chắn rồi; ý tưởng thì tốt, mặc dù chắc chắn có khá nhiều điều sáo rỗng trong đó. Nhưng anh muốn gì nào? Anh không thể lúc nào cũng có được thứ gì đó mới mẻ. Tôi không tin là anh ta sẽ làm nên chuyện gì lớn lao, nhưng anh có thể yên tâm khen ngợi anh ta. Anh ta đọc nhiều, là một học giả Đông phương đáng chú ý, và có óc phán đoán tốt. Chính anh ta đã viết bài đánh giá hay đó về cuốn ‘Suy ngẫm về đời sống gia đình’ của tôi. Chúng ta phải khoan dung với người trẻ.’
‘Nhưng anh ta hoàn toàn là một kẻ viết thuê!’ một người khác trong số các quý ông phản đối. ‘Trong thơ ca không có gì tệ hơn sự tầm thường, và anh ta chắc chắn không vượt qua được điều đó.’
‘Tội nghiệp anh ta,’ người thứ ba nhận xét, ‘và dì của anh ta rất vui về anh ta. Chính bà ấy, thưa ông Biên tập, đã tìm được rất nhiều người đặt mua bản dịch cuối cùng của ông.’
‘À, người đàn bà tốt bụng! Chà, tôi đã nhận xét sơ qua về cuốn sách. Tài năng không thể nghi ngờ – một món quà đáng hoan nghênh – một bông hoa trong vườn thơ – được trình bày khá đẹp – vân vân. Nhưng cuốn sách kia – tôi cho rằng tác giả mong tôi mua nó? Tôi nghe nói nó được khen ngợi. Anh ta có thiên tài, chắc chắn rồi: anh có nghĩ vậy không?’
‘Vâng, cả thế giới đều tuyên bố như vậy,’ nhà thơ đáp, ‘nhưng nó lại có vẻ hơi hoang dã. Đặc biệt là dấu câu của cuốn sách rất kỳ quặc.’
‘Sẽ tốt cho anh ta nếu chúng ta chỉ trích anh ta thậm tệ, và làm anh ta tức giận một chút, nếu không anh ta sẽ quá tự cao về bản thân.’
‘Nhưng điều đó sẽ không công bằng,’ người thứ tư phản đối. ‘Chúng ta đừng bắt bẻ những lỗi nhỏ, mà hãy vui mừng với những điều tốt đẹp thực sự và dồi dào mà chúng ta tìm thấy ở đây: anh ta vượt trội hơn tất cả những người còn lại.’
‘Không phải vậy. Nếu anh ta là một thiên tài thực sự, anh ta có thể chịu đựng được giọng điệu chỉ trích gay gắt. Có đủ người khen ngợi anh ta rồi. Đừng để chúng ta làm anh ta quá tự mãn.’
‘Tài năng rõ ràng,’ biên tập viên viết, ‘với sự cẩu thả thường thấy. Rằng anh ta có thể viết những câu thơ sai luật có thể thấy ở trang 25, nơi có hai lỗi về lượng âm. Chúng tôi khuyên anh ta nên nghiên cứu các tác giả cổ đại, v.v.’
“Ta bỏ đi,” Mặt Trăng tiếp tục, “và nhìn qua cửa sổ nhà bà dì.”
Nhà thơ được ca ngợi, người hiền lành, ngồi đó; tất cả khách khứa đều tỏ lòng kính trọng anh ta, và anh ta hạnh phúc.
“Ta tìm nhà thơ kia, người hoang dã; ta cũng tìm thấy anh ta trong một buổi họp mặt lớn tại nhà người bảo trợ của anh ta, nơi cuốn sách của nhà thơ hiền lành đang được thảo luận.”
‘Tôi cũng sẽ đọc sách của anh,’ Maecenas nói; ‘nhưng nói thật lòng – anh biết tôi không bao giờ giấu ý kiến của mình với anh – tôi không mong đợi nhiều từ nó, vì anh quá hoang dã, quá kỳ ảo. Nhưng phải thừa nhận rằng, với tư cách một con người, anh rất đáng kính trọng.’
Một cô gái trẻ ngồi ở một góc; và cô đọc trong một cuốn sách những dòng chữ này:
Mặt Trăng nói: “Bên cạnh con đường mòn trong rừng có hai trang trại nhỏ.”
Cửa ra vào thấp, một vài cửa sổ thì đặt khá cao, những cái khác lại gần mặt đất; và những bụi cây táo gai và hoàng liên gai mọc xung quanh chúng.
Mái của mỗi ngôi nhà phủ đầy rêu, hoa vàng và cây sống đời.
Bắp cải và khoai tây là những loại cây duy nhất được trồng trong vườn, nhưng ngoài hàng rào có một cây liễu, và dưới gốc cây liễu đó có một cô bé đang ngồi, mắt cô bé chăm chú nhìn vào cây sồi già giữa hai túp lều.
“Đó là một thân cây già cỗi, khô héo. Nó đã bị cưa cụt ngọn, và một con cò đã xây tổ trên đó; con cò đứng trong tổ, kêu lách cách bằng mỏ.”
Một cậu bé đến đứng bên cạnh cô bé: chúng là anh em.
‘Em đang nhìn gì vậy?’ cậu hỏi.
‘Em đang xem cò,’ cô bé đáp: ‘hàng xóm nói với em rằng hôm nay cò sẽ mang đến cho chúng ta một em trai hoặc em gái; chúng ta hãy xem nó đến nhé!’
‘Cò không mang những thứ như vậy đâu,’ cậu bé tuyên bố, ‘em có thể chắc chắn điều đó. Hàng xóm cũng nói với anh điều tương tự, nhưng bà ấy cười khi nói điều đó, nên anh hỏi bà ấy có thể nói ‘Trên danh dự của tôi’ không, và bà ấy không thể; và anh biết rằng câu chuyện về những con cò không phải là sự thật, và họ chỉ kể cho trẻ con chúng ta nghe cho vui thôi.’
‘Vậy thì trẻ con từ đâu đến?’ cô bé hỏi.
‘À, một thiên thần từ thiên đường mang chúng đến dưới áo choàng của mình, nhưng không ai có thể nhìn thấy ngài; và đó là lý do tại sao chúng ta không bao giờ biết khi nào ngài mang chúng đến.’
“Đúng lúc đó, có tiếng xào xạc trong cành cây liễu, và hai đứa trẻ chắp tay nhìn nhau: chắc chắn là thiên thần đang mang em bé đến.”
Chúng nắm tay nhau, và đúng lúc đó, cửa một trong hai ngôi nhà mở ra, và người hàng xóm xuất hiện.
‘Vào đi, hai đứa,’ bà nói. ‘Xem cò mang gì đến này. Đó là một em trai.’
“Và hai đứa trẻ nghiêm trang gật đầu với nhau, vì chúng đã cảm thấy chắc chắn rằng em bé đã đến.”
“TA đang lướt qua Đồng Hoang Luneburg,” Mặt Trăng nói.
“Một túp lều cô đơn đứng bên đường, vài bụi cây còi cọc mọc gần đó, và một con chim họa mi lạc đường hót líu lo.”
Nó chết trong cái lạnh của đêm: đó là bài hát từ biệt của nó mà ta đã nghe.
“Bình minh rạng đỏ.”
Ta thấy một đoàn xe của các gia đình nông dân di cư đang hướng đến Hamburg, để từ đó lên tàu đi Mỹ, nơi mà sự thịnh vượng tưởng tượng sẽ nở rộ với họ.
Các bà mẹ địu con nhỏ trên lưng, những đứa lớn hơn lảo đảo bên cạnh, và một con ngựa gầy đói tội nghiệp kéo một chiếc xe chở đồ đạc ít ỏi của họ.
Gió lạnh thổi vù vù, và vì thế cô bé nép sát vào mẹ, người mẹ, nhìn lên vầng trăng khuyết của ta, nghĩ về sự thiếu thốn cay đắng ở quê nhà, và nói về những khoản thuế nặng nề mà họ không thể trả nổi.
Cả đoàn xe đều nghĩ về điều tương tự; do đó, bình minh đang lên dường như đối với họ là một thông điệp từ mặt trời, về vận may sẽ chiếu sáng rực rỡ cho họ.
Họ nghe tiếng chim họa mi sắp chết hót; đó không phải là một nhà tiên tri giả dối, mà là một điềm báo của vận may.
Gió thổi vù vù, nên họ không hiểu rằng chim họa mi hót: ‘Hãy đi xa qua biển! Ngươi đã trả giá cho chuyến đi dài bằng tất cả những gì ngươi có, và nghèo khổ, bất lực ngươi sẽ vào đất Canaan. Ngươi phải bán mình, vợ ngươi, và con cái ngươi. Nhưng nỗi buồn của các ngươi sẽ không kéo dài. Sau những chiếc lá rộng thơm ngát, nữ thần Chết ẩn náu, và nụ hôn chào đón của nàng sẽ thổi cơn sốt vào máu ngươi. Hãy đi xa, hãy đi xa, qua những con sóng nhấp nhô.’
Và đoàn xe lắng nghe bài hát của chim họa mi một cách hài lòng, bài hát dường như hứa hẹn vận may.
Ngày ló dạng qua những đám mây mỏng; dân quê đi qua đồng hoang đến nhà thờ; những người phụ nữ mặc áo choàng đen với khăn trùm đầu trắng trông như những bóng ma bước ra từ những bức tranh trong nhà thờ.
Xung quanh là một vùng đồng bằng rộng lớn, chết chóc, phủ đầy cây thạch thảo nâu úa, và những khoảng đất đen cháy giữa những đồi cát trắng.
Những người phụ nữ mang theo sách thánh ca, và bước vào nhà thờ.
Ôi, hãy cầu nguyện, cầu nguyện cho những người đang lang thang tìm mộ bên kia những con sóng bạc đầu.
“TA biết một anh hề Pulcinella,” Mặt Trăng kể cho tôi.
“Công chúng vỗ tay tán thưởng ầm ĩ ngay khi nhìn thấy anh ta.”
Mọi cử động của anh ta đều hài hước, và chắc chắn sẽ khiến cả rạp cười nghiêng ngả; vậy mà tất cả đều không phải là nghệ thuật – đó hoàn toàn là tự nhiên.
Khi còn là một cậu bé, chơi đùa với những cậu bé khác, anh ta đã là Punch rồi.
Thiên nhiên đã định sẵn cho anh ta như vậy, và đã ban cho anh ta một cái bướu trên lưng, và một cái nữa trên ngực; nhưng con người bên trong, tâm trí của anh ta, ngược lại, lại rất phong phú.
Không ai có thể vượt qua anh ta về chiều sâu cảm xúc hay sự nhanh nhạy của trí tuệ.
Nhà hát là thế giới lý tưởng của anh ta.
Nếu anh ta sở hữu một thân hình mảnh mai, cân đối, anh ta có thể đã là diễn viên bi kịch hàng đầu trên bất kỳ sân khấu nào; sự anh hùng, sự vĩ đại, tràn ngập tâm hồn anh ta; vậy mà anh ta lại phải trở thành một Pulcinella.
Chính nỗi buồn và sự u sầu của anh ta chỉ làm tăng thêm vẻ khô khan hài hước trên những đường nét sắc sảo của anh ta, và làm tăng thêm tiếng cười của khán giả, những người đã dành những tràng pháo tay cho người nghệ sĩ yêu thích của họ.
Nàng Columbine xinh đẹp quả thực rất tốt bụng và thân mật với anh ta; nhưng nàng lại thích cưới chàng Harlequin hơn.
Sẽ thật nực cười nếu sắc đẹp và sự xấu xí lại thực sự sánh đôi cùng nhau.
“Khi Pulcinella rất buồn bã, nàng là người duy nhất có thể khiến anh ta bật cười sảng khoái, hoặc thậm chí chỉ là một nụ cười: đầu tiên nàng sẽ buồn cùng anh ta, sau đó im lặng hơn, và cuối cùng hoàn toàn vui vẻ và hạnh phúc.”
‘Tôi biết rõ anh đang gặp chuyện gì,’ nàng nói; ‘phải, anh đang yêu!’
Và anh ta không thể không cười.
‘Tôi và Tình yêu,’ anh ta kêu lên, ‘trông sẽ thật ngớ ngẩn. Công chúng sẽ la hét thế nào đây!’
‘Chắc chắn là anh đang yêu,’ nàng tiếp tục; và nói thêm với một giọng hài hước bi ai, ‘và tôi chính là người mà anh đang yêu.’
Bạn thấy đấy, một điều như vậy có thể được nói ra khi nó hoàn toàn không thể xảy ra – và, quả thực, Pulcinella bật cười, nhảy cẫng lên, và nỗi buồn của anh ta tan biến.
“Vậy mà nàng chỉ nói sự thật.”
Anh ta yêu nàng, yêu say đắm, như anh ta yêu những gì vĩ đại và cao cả trong nghệ thuật.
Trong đám cưới của nàng, anh ta là người vui vẻ nhất trong số các vị khách, nhưng trong sự tĩnh lặng của đêm, anh ta khóc: nếu công chúng nhìn thấy khuôn mặt méo mó của anh ta lúc đó, họ sẽ vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt.
“Và vài ngày trước, Columbine đã qua đời.”
Vào ngày tang lễ, Harlequin không cần phải xuất hiện trên sân khấu, vì anh ta là một người góa vợ đau khổ.
Giám đốc phải diễn một vở kịch rất vui nhộn, để công chúng không quá đau buồn khi nhớ đến nàng Columbine xinh đẹp và chàng Harlequin nhanh nhẹn.
Vì vậy, Pulcinella phải ồn ào và khoa trương hơn bao giờ hết; anh ta nhảy múa và nhào lộn, với nỗi tuyệt vọng trong tim; và khán giả la hét, và hô vang ‘Tuyệt vời, tuyệt vời nhất!’
Pulcinella thực sự đã được gọi ra trước màn.
Anh ta được tuyên bố là không ai sánh kịp.
“Nhưng đêm qua, gã nhỏ bé xấu xí ấy đã đi ra khỏi thị trấn, hoàn toàn một mình, đến nghĩa địa hoang vắng.”
Vòng hoa trên mộ Columbine đã tàn úa, và anh ta ngồi xuống đó.
Đó là một cảnh tượng dành cho họa sĩ.
Khi anh ta ngồi chống cằm, mắt nhìn lên ta, anh ta trông giống như một tượng đài kỳ dị – một Punch trên mộ – kỳ lạ và ngộ nghĩnh!
Nếu mọi người có thể nhìn thấy người nghệ sĩ yêu thích của họ, họ sẽ la lên như thường lệ, ‘Tuyệt vời, Pulcinella; tuyệt vời, tuyệt vời nhất!’
HÃY nghe Mặt Trăng kể cho tôi.
“Ta đã thấy cậu thiếu sinh quân vừa được phong sĩ quan mặc bộ quân phục đẹp đẽ lần đầu tiên; ta đã thấy cô dâu trẻ trong bộ váy cưới, và nàng công chúa trẻ con hạnh phúc trong bộ lễ phục lộng lẫy của mình; nhưng chưa bao giờ ta thấy một niềm hạnh phúc nào sánh bằng niềm hạnh phúc của một cô bé bốn tuổi mà ta đã quan sát tối nay.”
Cô bé vừa nhận được một chiếc váy xanh mới, và một chiếc mũ hồng mới, bộ trang phục lộng lẫy vừa được mặc vào, và mọi người đang gọi tìm một ngọn nến, vì tia sáng của ta, chiếu qua cửa sổ phòng, không đủ sáng cho dịp này, và cần thêm ánh sáng.
Cô bé đứng đó, cứng đờ và thẳng tắp như một con búp bê, hai tay duỗi thẳng một cách khó chịu ra xa chiếc váy, và các ngón tay xòe ra; và ôi, niềm hạnh phúc rạng ngời từ đôi mắt, và từ toàn bộ gương mặt của cô bé!
‘Ngày mai con sẽ được mặc quần áo mới đi chơi,’ mẹ cô bé nói; và cô bé nhìn lên chiếc mũ, rồi nhìn xuống chiếc váy, và mỉm cười rạng rỡ.
‘Mẹ ơi,’ cô bé kêu lên, ‘mấy con chó nhỏ sẽ nghĩ gì, khi chúng thấy con mặc những thứ mới lộng lẫy này?’
“TA đã nói với con về Pompeii,” Mặt Trăng nói; “cái xác của một thành phố, phơi bày trước mắt những thị trấn đang sống: ta biết một cảnh tượng khác còn kỳ lạ hơn, và đây không phải là cái xác, mà là bóng ma của một thành phố.”
Mỗi khi những vòi phun nước bắn tung tóe vào các bồn đá cẩm thạch, đối với ta, chúng dường như đang kể câu chuyện về thành phố nổi.
Phải, dòng nước phun trào có thể kể về nàng, sóng biển có thể hát về danh tiếng của nàng!
Trên mặt đại dương thường có một lớp sương mù bao phủ, và đó là chiếc khăn voan góa bụa của nàng.
Chú rể của biển cả đã chết, cung điện và thành phố của chàng là lăng mộ của chàng!
Con có biết thành phố này không?
Nàng chưa bao giờ nghe thấy tiếng bánh xe lăn hay tiếng vó ngựa trên đường phố của mình, nơi cá bơi lội, trong khi chiếc thuyền gondola đen lướt đi như bóng ma trên mặt nước xanh.
Ta sẽ cho con xem nơi đó,” Mặt Trăng tiếp tục, “quảng trường lớn nhất trong đó, và con sẽ tưởng tượng mình được đưa đến thành phố của một câu chuyện cổ tích.
Cỏ mọc um tùm giữa những phiến đá rộng, và vào lúc bình minh, hàng ngàn con chim bồ câu thuần hóa bay lượn quanh ngọn tháp cao đơn độc.
Ở ba phía, con thấy mình được bao quanh bởi những hành lang có mái vòm.
Trong đó, người Thổ Nhĩ Kỳ im lặng ngồi hút tẩu thuốc dài, người Hy Lạp đẹp trai dựa vào cột và ngắm nhìn những chiến lợi phẩm được dựng lên và những cột buồm cao vút, những kỷ vật của quyền lực đã qua.
Những lá cờ rủ xuống như những dải khăn tang.
Một cô gái nghỉ ngơi ở đó: cô đã đặt xuống những xô nước nặng trịch, chiếc đòn gánh mà cô đã dùng để gánh chúng dựa vào một bên vai, và cô dựa vào cột buồm chiến thắng.
Đó không phải là một cung điện cổ tích mà con nhìn thấy trước mặt đằng kia, mà là một nhà thờ: những mái vòm mạ vàng và những quả cầu sáng bóng phản chiếu tia sáng của ta; những con ngựa bằng đồng lộng lẫy trên kia đã thực hiện những cuộc hành trình, giống như con ngựa bằng đồng trong truyện cổ tích: chúng đã đến đây, rồi đi khỏi, và lại trở về.
Con có để ý đến vẻ lộng lẫy đa sắc của những bức tường và cửa sổ không?
Trông như thể Thiên Tài đã chiều theo những ý thích bất chợt của một đứa trẻ, trong việc trang trí những ngôi đền kỳ lạ này.
Con có nhìn thấy con sư tử có cánh trên cột không?
Vàng vẫn lấp lánh, nhưng đôi cánh của nó bị trói buộc – con sư tử đã chết, vì vua biển cả đã chết; những đại sảnh lớn đứng đó hoang vắng, và nơi trước đây treo những bức tranh lộng lẫy, giờ đây bức tường trần trụi lộ ra.
Người ăn mày lazzarone ngủ dưới mái vòm, nơi mà vỉa hè xưa kia chỉ dành cho gót chân của giới quý tộc cao sang.
Từ những giếng sâu, và có lẽ từ những nhà tù bên Cầu Than Thở, vang lên những tiếng than khóc, cũng như vào thời điểm tiếng trống lục lạc vang lên trên những chiếc thuyền gondola vui vẻ, và chiếc nhẫn vàng được ném từ chiếc thuyền Bucentaur xuống Adria, nữ hoàng của biển cả.
Adria! Hãy che mình trong sương mù; hãy để tấm màn che góa bụa của ngươi che khuất hình hài ngươi, và khoác lên tấm áo tang cho lăng mộ của chú rể ngươi – Venice bằng đá cẩm thạch, ma mị.
“TA nhìn xuống một nhà hát lớn,” Mặt Trăng nói.
“Nhà hát đông nghịt người, vì một diễn viên mới sẽ xuất hiện lần đầu tiên vào đêm đó.”
Tia sáng của ta lướt qua một cửa sổ nhỏ trên tường, và ta thấy một khuôn mặt được hóa trang với trán áp vào ô kính.
Đó là người hùng của buổi tối.
Bộ râu hiệp sĩ xoăn tít quanh cằm; nhưng có những giọt nước mắt trong mắt người đàn ông, vì anh ta đã bị la ó đuổi xuống, và quả thực là có lý do.
Người bất tài tội nghiệp!
Nhưng những kẻ bất tài không thể được chấp nhận vào vương quốc Nghệ Thuật.
Anh ta có cảm xúc sâu sắc, và yêu nghệ thuật của mình một cách cuồng nhiệt, nhưng nghệ thuật lại không yêu anh ta.
Tiếng chuông của người nhắc tuồng vang lên; ‘người hùng bước vào với vẻ cương quyết,’ đó là lời chỉ dẫn sân khấu trong vai diễn của anh ta, và anh ta phải xuất hiện trước một đám đông đã biến anh ta thành trò cười.
Khi vở kịch kết thúc, ta thấy một bóng người khoác áo choàng, lẻn xuống bậc thềm: đó là hiệp sĩ bại trận của buổi tối.
Những người thay đổi cảnh trí thì thầm với nhau, và ta theo chân người tội nghiệp về phòng của anh ta.
Treo cổ tự tử là một cái chết hèn hạ, và thuốc độc không phải lúc nào cũng có sẵn, ta biết; nhưng anh ta đã nghĩ đến cả hai.
Ta thấy anh ta nhìn khuôn mặt tái nhợt của mình trong gương, mắt khép hờ, để xem mình trông có ổn không khi là một xác chết.
Một người có thể rất bất hạnh, nhưng lại vô cùng bị ảnh hưởng.
Anh ta nghĩ đến cái chết, đến việc tự tử; ta tin rằng anh ta đã tự thương hại mình, vì anh ta khóc nức nở, và khi một người đàn ông đã khóc hết nước mắt thì anh ta không tự tử nữa.
“Kể từ đó, một năm đã trôi qua.”
Lại một vở kịch sắp được diễn, nhưng ở một nhà hát nhỏ, và bởi một đoàn kịch lưu động nghèo nàn.
Ta lại thấy khuôn mặt quen thuộc, với đôi má được hóa trang và bộ râu xoăn tít.
Anh ta nhìn lên ta và mỉm cười; vậy mà anh ta vừa bị la ó đuổi xuống chỉ một phút trước – bị la ó đuổi xuống khỏi một nhà hát tồi tàn, bởi một đám khán giả khốn khổ.
Và đêm nay, một chiếc xe tang ọp ẹp lăn bánh ra khỏi cổng thành.
Đó là một vụ tự tử – người hùng bị hóa trang, bị khinh miệt của chúng ta.
Người lái xe tang là người duy nhất có mặt, vì không ai theo sau ngoại trừ những tia sáng của ta.
Trong một góc nghĩa địa, xác chết của người tự tử được xúc xuống đất, và chẳng bao lâu nữa cây tầm ma sẽ mọc um tùm trên mộ anh ta, và người trông coi nghĩa địa sẽ ném gai và cỏ dại từ những ngôi mộ khác lên đó.
“TA đến từ Rome,” Mặt Trăng nói.
“Giữa lòng thành phố, trên một trong bảy ngọn đồi, là tàn tích của cung điện hoàng gia.”
Cây vả dại mọc trong các kẽ hở của bức tường, và che phủ sự trần trụi của nó bằng những chiếc lá rộng màu xanh xám; giẫm đạp giữa những đống đổ nát, con lừa giẫm lên những vòng nguyệt quế xanh, và vui mừng với những cây kế dại um tùm.
Từ nơi này, nơi đại bàng của Rome từng bay đi, nơi chúng ‘đến, thấy, và chinh phục,’ cánh cửa của chúng ta dẫn vào một ngôi nhà nhỏ tồi tàn, được xây bằng đất sét giữa hai cây cột; cây nho dại rủ xuống như một vòng hoa tang trên cửa sổ xiêu vẹo.
Một bà lão và cô cháu gái nhỏ sống ở đó: họ giờ đây cai trị trong cung điện của các Caesar, và cho người lạ xem những tàn tích của vinh quang quá khứ của nó.
Trong đại sảnh ngai vàng lộng lẫy, chỉ còn lại một bức tường trần trụi, và một cây bách đen đổ bóng tối lên nơi ngai vàng từng đứng.
Bụi bám dày vài tấc trên nền nhà vỡ nát; và cô bé, giờ là con gái của cung điện hoàng gia, thường ngồi đó trên chiếc ghế đẩu của mình khi chuông chiều đổ.
Lỗ khóa của cánh cửa gần đó, cô gọi là cửa sổ tháp pháo của mình; qua đó cô có thể nhìn thấy một nửa Rome, xa đến tận mái vòm hùng vĩ của Nhà thờ Thánh Peter.
“Vào buổi tối này, như thường lệ, sự tĩnh lặng bao trùm xung quanh; và trong ánh sáng rực rỡ của ta, cô cháu gái nhỏ bước đến.”
Trên đầu cô đội một bình đất nung hình dáng cổ xưa đựng đầy nước.
Chân cô đi đất, chiếc váy ngắn và tay áo trắng của cô bị rách.
Ta hôn lên đôi vai tròn xinh xắn, đôi mắt đen và mái tóc đen bóng của cô.
Cô bước lên cầu thang; chúng dốc đứng, được làm từ những khối đá cẩm thạch vỡ và đầu cột của một cây cột đổ.
Những con thằn lằn sặc sỡ giật mình trượt đi trước chân cô, nhưng cô không sợ chúng.
Cô đã giơ tay lên để kéo chuông cửa – một chân thỏ buộc vào một sợi dây tạo thành tay nắm chuông của cung điện hoàng gia.
Cô dừng lại một lúc – cô có thể đang nghĩ gì?
Có lẽ về đứa trẻ Giêsu xinh đẹp, mặc áo vàng bạc, ở dưới nhà nguyện, nơi những cây nến bạc sáng rực, và nơi những người bạn nhỏ của cô hát những bài thánh ca mà cô cũng có thể tham gia?
Ta không biết.
Chẳng mấy chốc cô lại di chuyển – cô vấp ngã: chiếc bình đất rơi từ trên đầu cô xuống, và vỡ tan trên những bậc thềm đá cẩm thạch.
Cô bật khóc.
Người con gái xinh đẹp của cung điện hoàng gia khóc thương chiếc bình vỡ vô giá trị; với đôi chân trần, cô đứng đó khóc; và không dám kéo sợi dây, sợi dây chuông của cung điện hoàng gia!
ĐÃ hơn hai tuần kể từ khi Mặt Trăng chiếu sáng.
Giờ đây ông lại đứng đó, tròn và sáng, phía trên những đám mây, từ từ trôi đi.
Hãy nghe Mặt Trăng kể cho tôi.
“Từ một thị trấn ở Fezzan, ta theo chân một đoàn lữ hành.”
Ở rìa sa mạc cát, trên một đồng muối, sáng lấp lánh như một hồ nước đóng băng, và chỉ được bao phủ ở vài chỗ bởi lớp cát bay nhẹ, đoàn lữ hành dừng lại.
Người lớn tuổi nhất trong đoàn – bầu nước treo ở thắt lưng, và trên đầu là một túi bánh mì không men nhỏ – dùng gậy vẽ một hình vuông trên cát, và viết vào đó vài dòng chữ từ kinh Koran, rồi cả đoàn lữ hành đi qua khu vực đã được thánh hiến.
Một thương gia trẻ, một người con của phương Đông, như ta có thể nhận ra qua đôi mắt và dáng người của anh, trầm ngâm cưỡi con ngựa trắng đang hí vang tiến về phía trước.
Có lẽ anh đang nghĩ về người vợ trẻ xinh đẹp của mình?
Chỉ mới hai ngày trước, con lạc đà, được trang trí bằng lông thú và những chiếc khăn choàng đắt tiền, đã chở cô, cô dâu xinh đẹp, đi vòng quanh tường thành, trong khi tiếng trống và chũm chọe vang lên, phụ nữ hát, và những phát súng lễ hội, mà chú rể bắn nhiều nhất, vang dội quanh con lạc đà; và bây giờ anh đang cùng đoàn lữ hành đi qua sa mạc.
“Trong nhiều đêm ta theo dấu đoàn xe.”
Ta thấy họ nghỉ ngơi bên giếng nước giữa những cây cọ lùn; họ đâm dao vào ngực con lạc đà đã ngã quỵ, và nướng thịt nó trên lửa.
Tia sáng của ta làm dịu đi những bãi cát nóng bỏng, và cho họ thấy những tảng đá đen, những hòn đảo chết giữa đại dương cát mênh mông.
Không có bộ tộc thù địch nào gặp họ trên con đường không dấu vết, không có cơn bão nào nổi lên, không có cột cát nào xoáy tròn tàn phá đoàn lữ hành đang đi.
Ở nhà, người vợ xinh đẹp cầu nguyện cho chồng và cha mình.
‘Họ có chết không?’ cô hỏi vầng trăng lưỡi liềm vàng của ta; ‘Họ có chết không?’ cô kêu lên với vầng trăng tròn của ta.
Giờ đây sa mạc đã ở lại phía sau họ.
Tối nay họ ngồi dưới những cây cọ cao vút, nơi cò sếu bay lượn quanh họ với đôi cánh dài, và bồ nông quan sát họ từ những cành cây mimosa.
Thảm cỏ tươi tốt bị giẫm nát, bị nghiền nát bởi chân voi.
Một đoàn người da đen đang trở về từ một khu chợ ở vùng nội địa: những người phụ nữ, với những chiếc cúc đồng trên mái tóc đen, và ăn mặc trong những bộ quần áo nhuộm chàm, đang lùa những con bò chở nặng, trên lưng chúng là những đứa trẻ da đen trần truồng đang ngủ.
Một người da đen dắt một con sư tử non mà anh ta đã mang theo, bằng một sợi dây.
Họ đến gần đoàn lữ hành; người thương gia trẻ ngồi trầm ngâm và bất động, nghĩ về người vợ xinh đẹp của mình, mơ mộng, ở xứ sở của người da đen, về đóa hoa huệ trắng của mình bên kia sa mạc.
Anh ngẩng đầu lên, và – Nhưng đúng lúc này, một đám mây trôi qua trước Mặt Trăng, rồi một đám mây khác.
Tối nay ta không nghe thêm gì từ ông ấy nữa.
“TA thấy một cô bé đang khóc,” Mặt Trăng nói; “cô bé khóc vì sự xấu xa của thế gian.”
Cô bé vừa được tặng một con búp bê rất đẹp.
Ôi, đó là một con búp bê lộng lẫy, thật xinh đẹp và mong manh!
Nó dường như không được tạo ra cho những nỗi buồn của thế gian này.
Nhưng các anh trai của cô bé, những cậu bé nghịch ngợm to lớn ấy, đã đặt con búp bê lên cao trên cành cây và bỏ chạy.
“Cô bé không thể với tới con búp bê, và không thể giúp nó xuống được, và đó là lý do tại sao cô bé khóc.”
Con búp bê chắc chắn cũng đang khóc, vì nó duỗi thẳng tay giữa những cành cây xanh, và trông rất buồn bã.
Phải, đây là những rắc rối của cuộc đời mà cô bé thường nghe kể.
Than ôi, con búp bê tội nghiệp! trời đã bắt đầu tối rồi; và giả sử đêm hoàn toàn buông xuống thì sao!
Có phải nó sẽ bị bỏ lại ngồi trên cành cây suốt đêm không?
Không, cô bé không thể quyết định như vậy.
‘Tớ sẽ ở lại với cậu,’ cô bé nói, mặc dù trong lòng cô bé chẳng vui vẻ gì.
Cô bé gần như có thể tưởng tượng mình nhìn thấy rõ những chú lùn nhỏ, với chiếc mũ chóp cao, đang ngồi trong bụi rậm; và xa hơn ở lối đi dài, những bóng ma cao lớn dường như đang nhảy múa.
Chúng đến gần hơn, gần hơn, và duỗi tay về phía cái cây nơi con búp bê ngồi; chúng cười nhạo, và chỉ tay vào nó.
Ôi, cô bé sợ hãi biết bao!
‘Nhưng nếu mình không làm gì sai,’ cô bé nghĩ, ‘thì không có gì xấu xa có thể làm hại mình. Mình tự hỏi liệu mình có làm gì sai không?’
Và cô bé suy nghĩ.
‘Ồ, có chứ! Mình đã cười con vịt tội nghiệp có miếng vải đỏ ở chân; nó đi khập khiễng trông thật buồn cười, mình không thể không cười; nhưng cười động vật là một tội lỗi.’
Và cô bé nhìn lên con búp bê.
‘Cậu có cười con vịt không?’ cô bé hỏi; và dường như con búp bê lắc đầu.
“TA nhìn xuống Tyrol,” Mặt Trăng nói, “và tia sáng của ta khiến những cây thông sẫm màu đổ bóng dài trên đá.”
Ta nhìn những bức tranh Thánh Christopher bế Chúa Hài Đồng được vẽ trên tường các ngôi nhà ở đó, những bức tượng khổng lồ từ mặt đất lên đến mái nhà.
Thánh Florian được miêu tả đang đổ nước vào ngôi nhà đang cháy, và Chúa bị treo trên cây thánh giá lớn bên đường, máu chảy ròng ròng.
Đối với thế hệ hiện tại, đây là những bức tranh cũ, nhưng ta đã thấy khi chúng được vẽ lên, và ghi nhận cách chúng nối tiếp nhau.
Trên đỉnh ngọn núi đằng kia, một tu viện nữ cô đơn nép mình như một tổ yến.
Hai trong số các nữ tu đứng trên tháp rung chuông; cả hai đều còn trẻ, và do đó ánh mắt của họ bay qua ngọn núi ra thế giới bên ngoài.
Một chiếc xe ngựa du lịch đi qua bên dưới, người đánh xe ngựa thổi kèn, và những nữ tu tội nghiệp nhìn theo chiếc xe ngựa một lúc với ánh mắt buồn bã, và một giọt nước mắt long lanh trong mắt người trẻ hơn.
Và tiếng kèn ngày càng yếu ớt, và tiếng chuông tu viện át đi những tiếng vọng cuối cùng của nó.
HÃY nghe Mặt Trăng kể cho tôi.
“Vài năm trước, ở Copenhagen này, ta nhìn qua cửa sổ của một căn phòng nhỏ tồi tàn.”
Cha và mẹ ngủ, nhưng cậu con trai nhỏ thì không ngủ.
Ta thấy rèm cửa bằng vải bông hoa của chiếc giường lay động, và đứa trẻ ló đầu ra.
Lúc đầu, ta nghĩ cậu bé đang nhìn chiếc đồng hồ lớn, được sơn màu đỏ và xanh lá cây rất vui mắt.
Trên đỉnh có một con chim cu gáy, bên dưới treo những quả cân bằng chì nặng trịch, và con lắc với đĩa kim loại bóng loáng lắc qua lắc lại, kêu ‘tích, tắc.’
Nhưng không, cậu bé không nhìn đồng hồ, mà nhìn vào guồng quay tơ của mẹ, đứng ngay bên dưới nó.
Đó là món đồ yêu thích của cậu bé, nhưng cậu không dám chạm vào nó, vì nếu nghịch ngợm, cậu sẽ bị đánh vào đốt ngón tay.
Hàng giờ liền, khi mẹ quay tơ, cậu bé sẽ ngồi lặng lẽ bên cạnh, nhìn con suốt kêu rì rào và bánh xe quay tròn, và khi ngồi đó, cậu nghĩ về nhiều điều.
Ôi, giá như cậu được tự mình quay bánh xe!
Cha và mẹ đang ngủ; cậu nhìn họ, rồi nhìn guồng quay tơ, và chẳng mấy chốc một bàn chân nhỏ trần trụi ló ra khỏi giường, rồi một bàn chân thứ hai, rồi hai cẳng chân nhỏ trắng trẻo.
Cậu bé đứng đó.
Cậu lại nhìn quanh, để xem cha mẹ có còn ngủ không – phải, họ ngủ; và bây giờ cậu rón rén, rón rén, trong chiếc áo ngủ ngắn cũn, đến gần guồng quay tơ, và bắt đầu quay.
Sợi tơ bay ra từ bánh xe, và bánh xe quay ngày càng nhanh.
Ta hôn lên mái tóc vàng óng và đôi mắt xanh của cậu, đó là một bức tranh thật đẹp.
“Đúng lúc đó người mẹ tỉnh giấc.”
Rèm cửa rung lên, bà nhìn ra, và tưởng tượng mình thấy một chú lùn hay một loại ma quỷ nhỏ nào đó.
‘Lạy Chúa!’ bà kêu lên, và đánh thức chồng mình một cách hoảng sợ.
Ông mở mắt, dụi mắt, và nhìn cậu bé nhanh nhẹn.
‘Sao, đó là Bertel mà,’ ông nói.
Và mắt ta rời khỏi căn phòng nghèo nàn, vì ta có quá nhiều thứ để xem.
Cùng lúc đó, ta nhìn vào các đại sảnh của Vatican, nơi các vị thần bằng đá cẩm thạch ngự trị.
Ta chiếu sáng lên nhóm tượng Laocoon; đá dường như đang thở dài.
Ta hôn một nụ hôn thầm lặng lên môi các Nàng Thơ, và họ dường như cử động và di chuyển.
Nhưng tia sáng của ta dừng lại lâu nhất quanh nhóm tượng sông Nile với vị thần khổng lồ.
Dựa vào tượng Nhân Sư, ông nằm đó trầm ngâm và suy tư, như thể đang nghĩ về những thế kỷ trôi qua; và những vị thần tình yêu nhỏ bé nô đùa với ông và với những con cá sấu.
Trong chiếc sừng sung túc, một vị thần tình yêu nhỏ xíu ngồi khoanh tay, chiêm ngưỡng vị thần sông vĩ đại, trang nghiêm, một bức tranh chân thực về cậu bé bên guồng quay tơ – những đường nét hoàn toàn giống nhau.
Hình hài bằng đá cẩm thạch nhỏ bé đứng đó duyên dáng và sống động, vậy mà bánh xe thời gian đã quay hơn một ngàn lần kể từ khi nó được tạc ra từ đá.
Cũng thường xuyên như cậu bé trong căn phòng nhỏ quay guồng tơ, bánh xe vĩ đại đã rì rào, trước khi thời đại có thể lại tạo ra những vị thần bằng đá cẩm thạch sánh ngang với những vị thần mà sau này ông đã tạo ra.
“Nhiều năm đã trôi qua kể từ khi tất cả những chuyện này xảy ra,” Mặt Trăng tiếp tục nói.
“Hôm qua ta nhìn xuống một vịnh biển ở bờ biển phía đông Đan Mạch.”
Ở đó có những khu rừng tuyệt đẹp, và những cây cao, một lâu đài hiệp sĩ cổ kính với những bức tường đỏ, những con thiên nga bơi lội trong ao, và ở phía sau, giữa những vườn cây ăn quả, hiện ra một thị trấn nhỏ với một nhà thờ.
Nhiều chiếc thuyền, thủy thủ đoàn đều cầm đuốc, lướt trên mặt nước tĩnh lặng – nhưng những ngọn lửa này không được thắp để bắt cá, vì mọi thứ đều có vẻ lễ hội.
Âm nhạc vang lên, một bài hát được cất lên, và trên một trong những chiếc thuyền, một người đàn ông đứng thẳng, được những người còn lại tỏ lòng kính trọng, một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ, khoác áo choàng.
Ông có đôi mắt xanh và mái tóc dài màu trắng.
Ta biết ông, và nghĩ về Vatican, về nhóm tượng sông Nile, và các vị thần bằng đá cẩm thạch cổ xưa.
Ta nghĩ về căn phòng nhỏ đơn sơ nơi cậu bé Bertel ngồi trong chiếc áo ngủ bên guồng quay tơ.
Bánh xe thời gian đã quay, và những vị thần mới đã hiện ra từ đá.
Từ những chiếc thuyền vang lên tiếng hô: ‘Hoan hô, hoan hô Bertel Thorwaldsen!’
“TA sẽ cho con xem một bức tranh từ Frankfort,” Mặt Trăng nói.
“Ta đặc biệt chú ý đến một tòa nhà ở đó.”
Đó không phải là ngôi nhà nơi Goethe sinh ra, cũng không phải Tòa thị chính cổ, qua những cửa sổ có song sắt của nó có thể nhìn thấy sừng của những con bò được nướng và chia cho dân chúng khi các hoàng đế lên ngôi.
Không, đó là một ngôi nhà riêng, trông giản dị, và được sơn màu xanh lá cây.
Nó đứng gần Phố Do Thái cổ.
Đó là nhà của Rothschild.
“Ta nhìn qua cánh cửa đang mở.”
Cầu thang được chiếu sáng rực rỡ: những người hầu cầm nến sáp trong những chân nến bằng bạc nguyên khối đứng đó, và cúi đầu thật thấp trước một bà lão, đang được khiêng xuống lầu trên một chiếc kiệu.
Chủ nhân ngôi nhà đứng đầu trần, và kính cẩn hôn lên tay bà lão.
Bà là mẹ của ông.
Bà gật đầu một cách thân thiện với ông và những người hầu, và họ khiêng bà vào con phố hẹp tối tăm, vào một ngôi nhà nhỏ, đó là nơi ở của bà.
Con cái bà đã được sinh ra ở đây, từ đây gia sản của gia đình đã bắt đầu.
Nếu bà rời bỏ con phố bị khinh miệt và ngôi nhà nhỏ, vận may cũng sẽ rời bỏ con cái bà.
Đó là niềm tin vững chắc của bà.
Mặt Trăng không kể thêm gì nữa; chuyến thăm của ông tối nay quá ngắn ngủi.
Nhưng tôi nghĩ về bà lão trong con phố hẹp bị khinh miệt.
Chỉ cần một lời nói của bà, và một ngôi nhà lộng lẫy sẽ mọc lên cho bà bên bờ sông Thames – một lời nói, và một biệt thự sẽ được chuẩn bị ở Vịnh Naples.
“Nếu ta rời bỏ ngôi nhà thấp hèn, nơi vận may của các con trai ta bắt đầu nở rộ, vận may sẽ rời bỏ chúng!”
Đó là một sự mê tín, nhưng là một sự mê tín thuộc loại mà người nào biết câu chuyện và đã xem bức tranh này, chỉ cần hai từ đặt dưới bức tranh là có thể hiểu được nó; và hai từ đó là: “Một người mẹ.”
“ĐÓ là hôm qua, vào lúc rạng sáng” – đây là những lời Mặt Trăng kể cho tôi – “trong thành phố lớn, chưa có ống khói nào bốc khói – và chính những ống khói là nơi ta đang nhìn.”
Bất ngờ, một cái đầu nhỏ ló ra từ một trong số đó, rồi nửa thân người, hai tay chống lên vành ống khói.
‘Hê-ya! Hê-ya!’ một giọng nói kêu lên.
Đó là cậu bé quét ống khói, lần đầu tiên trong đời cậu chui qua một ống khói, và ló đầu ra trên đỉnh.
‘Hê-ya! Hê-ya!’ Phải, chắc chắn đó là một điều hoàn toàn khác biệt so với việc bò loanh quanh trong những ống khói tối tăm, chật hẹp! không khí thổi thật trong lành, và cậu có thể nhìn bao quát cả thành phố về phía khu rừng xanh.
Mặt trời vừa mới mọc.
Nó chiếu sáng tròn và lớn, ngay vào mặt cậu, rạng ngời vẻ chiến thắng, mặc dù mặt cậu bị bồ hóng làm cho đen một cách khá xinh xắn.
‘Cả thị trấn có thể nhìn thấy con bây giờ,’ cậu kêu lên, ‘và mặt trăng cũng có thể nhìn thấy con bây giờ, và mặt trời nữa. Hê-ya! Hê-ya!’
Và cậu vung cây chổi của mình một cách chiến thắng.
“ĐÊM qua ta nhìn xuống một thị trấn ở Trung Hoa,” Mặt Trăng nói.
“Tia sáng của ta chiếu rọi những bức tường trần trụi tạo thành các con phố ở đó.”
Thỉnh thoảng, chắc chắn rồi, người ta thấy một cánh cửa; nhưng nó bị khóa, vì người Trung Hoa quan tâm gì đến thế giới bên ngoài?
Những cánh cửa chớp bằng gỗ đóng kín che khuất các cửa sổ sau những bức tường nhà; nhưng qua cửa sổ của ngôi đền, một ánh sáng yếu ớt lấp lánh.
Ta nhìn vào, và thấy những đồ trang trí kỳ lạ bên trong.
Từ sàn nhà lên đến trần nhà, các bức tranh được vẽ bằng những màu sắc sặc sỡ nhất, và được mạ vàng lộng lẫy – những bức tranh mô tả các hành động của các vị thần ở trần gian.
Trong mỗi hốc tường đều đặt tượng, nhưng chúng gần như bị che khuất hoàn toàn bởi những tấm rèm màu và những lá cờ rủ xuống.
Trước mỗi pho tượng (và tất cả chúng đều được làm bằng thiếc) là một bàn thờ nhỏ đựng nước thánh, với hoa và những ngọn nến sáp đang cháy.
Trên tất cả, đứng sừng sững là Phật Tổ, vị thần tối cao, khoác áo lụa vàng, vì màu vàng ở đây là màu thiêng liêng.
Dưới chân bàn thờ, một sinh linh sống động, một vị sư trẻ, đang ngồi.
Chàng dường như đang cầu nguyện, nhưng giữa lúc cầu nguyện, chàng dường như rơi vào trạng thái trầm tư sâu sắc, và điều này hẳn là sai trái, vì má chàng ửng hồng và chàng cúi đầu.
Tội nghiệp Sư Huệ Hồng!
Có lẽ, chàng đang mơ về việc làm vườn trong khu vườn hoa nhỏ sau bức tường cao của con phố?
Và công việc đó có vẻ thú vị hơn việc trông nom những ngọn nến sáp trong đền thờ không?
Hay chàng muốn ngồi dự bữa tiệc thịnh soạn, lau miệng bằng giấy bạc giữa mỗi món ăn?
Hay tội lỗi của chàng lớn đến mức, nếu chàng dám nói ra, Thiên triều sẽ trừng phạt bằng cái chết?
Suy nghĩ của chàng có dám bay theo những con tàu của người man di, đến quê hương của họ ở nước Anh xa xôi không?
Không, suy nghĩ của chàng không bay xa đến thế, vậy mà chúng vẫn tội lỗi, tội lỗi như những suy nghĩ nảy sinh từ những trái tim trẻ tuổi, tội lỗi ở đây trong đền thờ, trước sự hiện diện của Phật Tổ và các vị thần linh thiêng khác.
“Ta biết suy nghĩ của chàng đã lạc lối đến đâu.”
Ở đầu kia của thành phố, trên mái nhà bằng phẳng lát gạch sứ, nơi đặt những chiếc bình xinh xắn vẽ hoa, nàng Pu xinh đẹp đang ngồi, với đôi mắt tinh nghịch, đôi môi đầy đặn, và đôi chân nhỏ xíu.
Đôi giày chật làm đau chân nàng, nhưng trái tim nàng còn đau hơn thế.
Nàng giơ cánh tay tròn trịa duyên dáng lên, và chiếc áo lụa sa tanh của nàng xào xạc.
Trước mặt nàng là một cái bát thủy tinh đựng bốn con cá vàng.
Nàng dùng một cây que sơn mài mảnh khảnh khuấy nhẹ cái bát, rất chậm rãi, vì nàng cũng đang chìm trong suy tư.
Có lẽ, nàng đang nghĩ, những con cá được khoác lên mình bộ cánh vàng óng, chúng sống lặng lẽ và bình yên trong thế giới pha lê của chúng, chúng được cho ăn đều đặn, vậy mà chúng sẽ hạnh phúc hơn biết bao nếu được tự do?
Phải, điều đó nàng Pu xinh đẹp hoàn toàn có thể hiểu được.
Suy nghĩ của nàng lang thang rời khỏi nhà, lang thang đến đền thờ, nhưng không phải vì những điều thánh thiện.
Tội nghiệp Pu! Tội nghiệp Sư Huệ Hồng!
“Những suy nghĩ trần tục của họ gặp nhau, nhưng tia sáng lạnh lẽo của ta nằm giữa hai người, như thanh gươm của tiểu thiên thần.”
“KHÔNG khí tĩnh lặng,” Mặt Trăng nói; “nước trong suốt như bầu trời tinh khiết nhất mà ta đang lướt qua, và sâu dưới mặt nước, ta có thể thấy những loài cây kỳ lạ vươn những cánh tay dài về phía ta như những cây cổ thụ trong rừng.”
Cá bơi lội qua lại trên ngọn cây của chúng.
Cao trên không trung, một đàn thiên nga hoang dã đang bay, một con trong số đó hạ thấp dần, với đôi cánh mỏi mệt, mắt nó dõi theo đoàn lữ hành trên không, đang tan biến ngày càng xa.
Với đôi cánh dang rộng, nó từ từ hạ xuống, như một bong bóng xà phòng chìm trong không khí tĩnh lặng, cho đến khi chạm mặt nước.
Cuối cùng, đầu nó ngả ra sau giữa đôi cánh, và nó lặng lẽ nằm đó, như một bông sen trắng trên mặt hồ yên tĩnh.
Và một cơn gió nhẹ nổi lên, làm gợn sóng mặt hồ yên tĩnh, mặt hồ lấp lánh như những đám mây trôi thành những đợt sóng rộng lớn; và con thiên nga ngẩng đầu, và dòng nước rực rỡ bắn tung tóe như lửa xanh trên ngực và lưng nó.
Bình minh chiếu sáng những đám mây đỏ, con thiên nga lấy lại sức mạnh, và bay về phía mặt trời mọc, về phía bờ biển xanh lam nơi đoàn lữ hành đã đi; nhưng nó bay một mình, với nỗi khao khát trong lòng.
Cô đơn nó bay trên những con sóng xanh nhấp nhô.
“TA sẽ cho con xem một bức tranh khác về Thụy Điển,” Mặt Trăng nói.
“Giữa những khu rừng thông tối tăm, gần bờ sông Stoxen u buồn, là nhà thờ tu viện cổ Wreta.”
Tia sáng của ta lướt qua song sắt vào những hầm mộ rộng rãi, nơi các vị vua ngủ yên trong những chiếc quan tài đá lớn.
Trên tường, phía trên mộ của mỗi người, là biểu tượng của sự huy hoàng trần thế, một chiếc vương miện hoàng gia; nhưng nó chỉ được làm bằng gỗ, sơn và mạ vàng, và được treo trên một cái chốt gỗ đóng vào tường.
Mối mọt đã gặm nhấm lớp gỗ mạ vàng, nhện đã giăng tơ từ vương miện xuống cát, như một lá cờ tang, mong manh và thoáng qua như nỗi buồn của người trần.
Họ ngủ thật yên tĩnh!
Ta có thể nhớ họ rất rõ ràng.
Ta vẫn thấy nụ cười táo bạo trên môi họ, nụ cười biểu lộ niềm vui hay nỗi buồn một cách mạnh mẽ và rõ ràng.
Khi chiếc tàu hơi nước uốn lượn như một con ốc sên thần kỳ trên các hồ nước, một người lạ thường đến nhà thờ, và thăm hầm mộ; anh ta hỏi tên các vị vua, và chúng nghe như những âm thanh đã chết và bị lãng quên.
Anh ta mỉm cười nhìn những chiếc vương miện bị mối mọt, và nếu anh ta tình cờ là một người mộ đạo, trầm tư, một chút u sầu sẽ hòa lẫn với nụ cười.
Hãy ngủ yên, những người đã khuất!
Mặt Trăng nghĩ về các người, Mặt Trăng ban đêm chiếu tia sáng của mình vào vương quốc im lặng của các người, nơi có chiếc vương miện bằng gỗ thông treo lơ lửng.
“NGAY bên đường cái,” Mặt Trăng nói, “có một quán trọ, và đối diện với nó là một nhà kho lớn chứa xe ngựa, mái tranh của nó vừa được lợp lại.”
Ta nhìn xuống giữa những thanh xà trần và qua gác xép trống trải vào không gian thiếu tiện nghi bên dưới.
Con gà tây ngủ trên xà nhà, và chiếc yên ngựa nằm trong máng ăn trống rỗng.
Giữa nhà kho có một chiếc xe ngựa du lịch; chủ nhân đang ngủ say bên trong, trong khi ngựa đang được cho uống nước.
Người đánh xe vươn vai, mặc dù ta chắc chắn rằng anh ta đã ngủ rất ngon trong nửa chặng đường cuối cùng.
Cửa phòng của người hầu mở hé, và chiếc giường trông như thể đã bị lục tung; ngọn nến đặt trên sàn nhà, và đã cháy sâu xuống đến tận đế.
Gió lạnh thổi qua nhà kho: trời gần sáng hơn là nửa đêm.
Trong khung gỗ trên mặt đất, một gia đình nhạc công lang thang đang ngủ.
Cha và mẹ dường như đang mơ về thứ rượu mạnh còn lại trong chai.
Cô con gái nhỏ xanh xao cũng đang mơ, vì mắt cô ướt đẫm nước mắt.
Cây đàn hạc đặt ở đầu giường họ, và con chó nằm dài dưới chân họ.
“ĐÓ là ở một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh,” Mặt Trăng nói; “chuyện đó chắc chắn xảy ra vào năm ngoái, nhưng điều đó chẳng liên quan gì đến vấn đề.”
Ta đã thấy rất rõ ràng.
Hôm nay ta đọc về nó trên báo, nhưng ở đó nó không được diễn tả rõ ràng bằng một nửa.
Trong phòng rượu của quán trọ nhỏ, người dắt gấu đang ăn tối; con gấu bị buộc ở bên ngoài, sau đống củi – tội nghiệp Bruin, nó chẳng làm hại ai, mặc dù trông nó khá hung dữ.
Trên gác xép, ba đứa trẻ nhỏ đang chơi đùa dưới ánh sáng của ta; đứa lớn nhất có lẽ sáu tuổi, đứa nhỏ nhất chắc chắn không quá hai tuổi.
‘Cộp, cộp’ – có ai đó đang đi lên lầu: ai vậy nhỉ?
Cánh cửa bị đẩy mạnh ra – đó là Bruin, con Bruin to lớn, lông xù!
Nó đã chán chờ đợi dưới sân, và đã tìm được đường lên cầu thang.
Ta đã thấy tất cả,” Mặt Trăng nói.
“Lúc đầu, bọn trẻ rất sợ hãi con vật to lớn, lông xù; mỗi đứa chui vào một góc, nhưng nó tìm ra tất cả, và ngửi chúng, nhưng không làm hại chúng.”
‘Đây chắc hẳn là một con chó lớn,’ chúng nói, và bắt đầu vuốt ve nó.
Nó nằm xuống đất, cậu bé nhỏ nhất trèo lên lưng nó, và cúi cái đầu nhỏ với những lọn tóc vàng óng, chơi trò trốn tìm trong bộ lông xù của con thú.
Chẳng mấy chốc, cậu bé lớn nhất lấy trống của mình, và đánh vào nó cho đến khi nó kêu vang; con gấu đứng dậy bằng hai chân sau, và bắt đầu nhảy múa.
Thật là một cảnh tượng đáng yêu.
Mỗi cậu bé bây giờ lấy súng của mình, và con gấu cũng phải có một khẩu, và nó cầm súng khá đúng cách.
Đây là một người bạn chơi tuyệt vời mà chúng đã tìm thấy; và chúng bắt đầu diễu hành – một, hai; một, hai.
“Bất ngờ có ai đó đến cửa, cửa mở ra, và mẹ của bọn trẻ xuất hiện.”
Bạn nên thấy cô ấy trong nỗi kinh hoàng câm lặng, với khuôn mặt trắng bệch như phấn, miệng hé mở, và đôi mắt cố định trong ánh nhìn kinh hãi.
Nhưng cậu bé út gật đầu với cô một cách vui vẻ, và kêu lên bằng giọng nói ngọng nghịu trẻ con của mình, ‘Chúng con đang chơi trò lính.’
Và rồi người dắt gấu chạy lên.
GIÓ thổi dữ dội và lạnh buốt, những đám mây bay vội qua; chỉ thỉnh thoảng Mặt Trăng mới hiện ra trong chốc lát.
Ông nói: “Ta nhìn từ bầu trời im lặng xuống những đám mây đang trôi, và thấy những bóng lớn đuổi nhau trên mặt đất.”
Ta nhìn vào một nhà tù.
Một chiếc xe ngựa đóng kín đậu trước đó; một tù nhân sắp bị đưa đi.
Tia sáng của ta xuyên qua cửa sổ có song sắt về phía bức tường; người tù đang khắc vài dòng lên đó, như một vật kỷ niệm chia tay; nhưng anh ta không viết chữ, mà là một giai điệu, tiếng lòng của anh ta.
Cánh cửa mở ra, và anh ta được dẫn ra, rồi anh ta nhìn chằm chằm vào vầng trăng tròn của ta.
Những đám mây trôi qua giữa chúng ta, như thể anh ta không được nhìn thấy mặt mình, và ta cũng không thấy mặt anh ta.
Anh ta bước vào xe ngựa, cửa đóng lại, roi quất, và ngựa phi nước đại vào khu rừng rậm, nơi tia sáng của ta không thể theo kịp anh ta; nhưng khi ta liếc qua cửa sổ có song sắt, tia sáng của ta lướt qua những nốt nhạc, lời từ biệt cuối cùng của anh ta được khắc trên tường nhà tù – nơi lời nói bất lực, âm thanh thường có thể lên tiếng.
Tia sáng của ta chỉ có thể chiếu sáng những nốt nhạc riêng lẻ, vì vậy phần lớn những gì được viết ở đó sẽ mãi mãi là một bí ẩn đối với ta.
Có phải đó là bài thánh ca tử thần mà anh ta đã viết ở đó không?
Có phải đó là những nốt nhạc vui tươi của niềm vui không?
Anh ta có lái xe đi gặp cái chết, hay vội vã đến vòng tay của người yêu dấu?
Tia sáng của Mặt Trăng không đọc được tất cả những gì được viết bởi người trần.
“TA yêu trẻ con,” Mặt Trăng nói, “đặc biệt là những đứa bé xíu – chúng thật ngộ nghĩnh.”
Đôi khi ta nhìn trộm vào phòng, giữa rèm cửa và khung cửa sổ, khi chúng không nghĩ đến ta.
Ta thích thú khi thấy chúng mặc quần áo và cởi quần áo.
Đầu tiên, bờ vai tròn nhỏ nhắn trần trụi lách ra khỏi chiếc váy, rồi đến cánh tay; hoặc ta thấy chiếc tất được kéo ra, và một đôi chân nhỏ trắng trẻo mũm mĩm xuất hiện, và một bàn chân nhỏ trắng trẻo đáng yêu, và ta cũng hôn nó.
“Nhưng về điều ta định kể cho con.”
Tối nay ta nhìn qua một cửa sổ, trước đó không có rèm che, vì không có ai ở đối diện.
Ta thấy cả một đám trẻ con, tất cả đều cùng một gia đình, và trong số đó có một cô em gái nhỏ.
Cô bé mới bốn tuổi, nhưng có thể đọc kinh cầu nguyện giỏi như bất kỳ ai trong số những đứa còn lại.
Mẹ cô bé ngồi bên giường mỗi tối, và nghe cô bé đọc kinh cầu nguyện; rồi cô bé được một nụ hôn, và mẹ ngồi bên giường cho đến khi cô bé ngủ thiếp đi, điều này thường xảy ra ngay khi cô bé nhắm mắt lại.
“Tối nay, hai đứa trẻ lớn hơn hơi ồn ào một chút.”
Một đứa nhảy lò cò trên một chân trong chiếc áo ngủ dài màu trắng, và đứa kia đứng trên ghế, xung quanh là quần áo của tất cả bọn trẻ, và tuyên bố rằng nó đang diễn kịch tượng Hy Lạp.
Đứa thứ ba và thứ tư cẩn thận xếp quần áo sạch vào hộp, vì đó là việc phải làm; và người mẹ ngồi bên giường của đứa út, và thông báo cho tất cả những đứa còn lại rằng chúng phải im lặng, vì em gái nhỏ sắp đọc kinh cầu nguyện.
“Ta nhìn vào, qua ngọn đèn, vào chiếc giường của cô bé, nơi cô nằm dưới tấm chăn trắng tinh tươm, hai tay chắp lại một cách nghiêm trang và khuôn mặt nhỏ nhắn khá trang nghiêm và nghiêm túc.”
Cô bé đang đọc to kinh Lạy Cha.
Nhưng mẹ cô bé ngắt lời giữa lúc cô bé đang cầu nguyện.
‘Sao vậy,’ bà hỏi, ‘khi con cầu xin bánh ăn hàng ngày, con luôn thêm vào điều gì đó mà mẹ không hiểu được? Con phải nói cho mẹ biết đó là gì.’
Cô bé nằm im, và nhìn mẹ mình một cách ngượng ngùng.
‘Con nói gì sau khi cầu xin bánh ăn hàng ngày?’
‘Mẹ ơi, đừng giận: con chỉ nói, và thật nhiều bơ trên đó.’